Cho đến nay, siêu âm vẫn là phương pháp được sử dụng rộng rãi để tầm soát u gan cũng như nhiều bệnh lý khác của gan. Bởi siêu âm có nhiều ưu điểm như an toàn, có thể làm nhiều lần, có thể xem hình ảnh tại thời gian thực.
Để phát hiện khối u trong gan, siêu âm được sử dụng chủ yếu là B-Mode, sau đó có thể được chỉ định các thăm dò tiếp theo để giá chi tiết hơn. Cuối cùng sinh thiết gan là chỉ định cuối cùng, là tiêu chuẩn vàng để xác định một khối u gan là ác tính hay lành tính.
Nhờ sự phát triển vượt bậc của siêu âm, trong thăm dò đánh giá gan cho đến nay siêu âm đã có thể đánh giá bằng hình ảnh B-mode, Doppler màu, Doppler xung, Doppler năng lượng, định lượng gan nhiễm mỡ, định lượng mức độ cứng của gan, không chỉ đánh giá bằng hình thái mà còn bán định lượng và định lượng. Đặc biệt gần đây các nghiên cứu cũng đã hướng tới sử dụng đàn hồi mô trong đánh giá mức độ lành tính hay ác tính của một khối u gan.
Tác giả Xing Hu và cộng sự [1], khi nghiên cứu trên 1894 hình ảnh tổn thương gan ở trên 1728 bệnh nhân đã rút ra kết luận rằng: đàn hồi mô Shearwave Elastography (SWE) có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán phân biệt tổn thương gan lành tính và ác tính. Và đây có thể là phương pháp không xâm lấn của tương lai trong chẩn đoán u gan.
Các nghiên cứu của nhiều tác giả khác cũng có nhận định tương tự. Tác giả Grgurevic I và cộng sự [2] nhận định điểm Cut-off trong nghiên cứu của ông là 22.3 kPa. Ông cũng nhận định một khối u có nguy cơ ác tính rất cao nếu độ cứng trên 32.5 kPa.
Mặc dù có nhiều hứa hẹn nhưng các ý kiến đồng thuận đưa ra chưa được thống nhất và còn nhiều tranh cãi. Khuyến cáo 14 (WFUMB Guidelines 2018) [3] lại kết luận không đủ bằng chứng để đưa ra khuyến nghị về việc sử dụng SWE phân biệt tổn thương lành tính và ác tính và đặc điểm của tổn thương gan khu trú.
Trong buổi hội thảo về vai trò của siêu âm đàn hồi mô được thực hiện trên máy siêu âm LOGIQ Fortis của hãng GE Healthcare, Bs Lê Thanh Liêm có tổng hợp một vài ca lâm sàng. Các ca này đều có các thông số phù hợp với nhận định về các ngưỡng phát hiện 22.3 kPa và 32.5 kPa (như ở nghiên cứu trên). Điều này cho thấy SWE có thể được sử dụng như một phương pháp tham khảo bổ sung, thêm một bình diện nhận định góp phần làm sáng rõ hơn tiên lượng nguy cơ ác tính hay lành tính của khối u gan.
Cân lâm sàng cần phải luôn đi song hành với lâm sàng. Nên cũng trong buổi hôi thảo, Bs Nguyễn Thế Phương đã trình bày những điểm mới về cơ chế sinh lý bệnh trong gan thoái hóa mỡ. Điều này thôi thúc các nhà lâm sàng cần có phương pháp nghiên cứu để chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân càng sớm càng tốt. Việc sử dụng siêu âm SWE có thể chẩn đoán Viêm gan thoái hóa mỡ (NASH) có ý nghĩa rất lớn.
Tài liệu tham khảo
1. Xing Hu, et al. Diagnostic effect of shear wave elastography imaging for differentiation of malignant liver lesions: a meta-analysis, BMC Gastroenterol. 2019; 19: 60
2. Grgurevic, et al. Liver elastography malignancy prediction score for noninvasive characterization of focal liver lesions, Liver Int. 2018 Jun;38(6):1055-1063
3. Giovanna Ferraioli, et al. Liver Ultrasound Elastography: An Update to the World Federation for Ultrasound in Medicine and Biology Guidelines and Recommendations. Ultrasound Med Biol. 2018 Dec;44(12):2419-2440.