Hình nốt trong tuyến là hình khối khu trú trong tuyến, thường là trên lâm sàng sờ thấy hình nốt đơn độc trên tổ chức tuyên bình thường. ở Pháp cũng như ở Bắc Mỹ có tới 6% dân số có nốt trong tuyến khi lựa chọn ngẫu nhiên, và lên tới 13,5% khi dùng siêu âm để thăm khám.
Vấn đề đối với các nhà lâm sàng là chẩn đoán đựợc các nốt đó là lành tính hay ác tính. Vì tổn thương này hay gặp nên không thể mổ tất cả các bệnh nhân có nốt, tốt nhất là dùng các phương pháp chẩn đoán khác nhau để đánh giá xem nốt là lành hay ác và siêu âm cũng đóng góp vai trò quan trọng.
Dấu hiệu trên siêu âm
Trên siêu âm các nốt đựoc mô tả về vị trí, gianh giới, kích thước, và cấu trúc âm.
-Kích thước: nốt từ 5-10mm có thể thấy được tuỳ theo độ phân giải của từng loại máy, khi nốt to nó được đo theo công thức:
V = cao x rộng x dày
-Giới hạn: có thể thấy rõ hay không rõ, có thể có viền giảm âm xung quanh hay không
-Cấu trúc âm:
Nốt rỗng âm hoàn toàn hay nang
Nó là nước nếu có các tính chất sau:
.Hoàn toàn rỗng âm khi điều chỉnh ở mức sáng bình thường
.Có bóng tăng âm phia sau
.Có thành mỏng
.Không có cấu trúc đặc âm khi tăng sóng âm nhiều.
Chính vì vậy mà phải điều chỉnh cường độ âm ở các mức khác nhau, ở mức cường độ thấp thì nốt hỗn hợp có thể cho hình rỗng âm và ngược lại…
Hình rỗng âm có hai loại dịch trong nang: dịch trong vàng chanh hay dịch đặc có màu (nâu, chocolat, xanh nhạt…) có khi màu máu. Siêu âm có thể phân biệt được hai loại dịch này bằng cách tăng âm lên nhiều thì dịch trong sẽ có sóng âm từ ngoài sát thành lan vào trong nếu tiếp tục tăng âm lên, còn dịch đặc có âm rải rác thường đều.
Nốt đặc hoàn toàn
So sánh âm của nốt với cấu trúc âm của tổ chức lành để phân biệt nốt giảm âm hay tăng âm. Thường gặp các nốt giảm âm hay tăng âm, các nốt đồng âm ít gặp hơn
Nốt hỗn hợp
Đánh giá xem nốt hỗn hợp chứa bao nhiêu phần rỗng và đặc âm, có thể phần nang chiếm phần lớn làm cho nốt trở thành giả nang thành dày bờ có thể không đều có thể có vách bên trong (dưới 2mm), một số lớp có thể thấy như hình nụ sùi do thấy chân của vách trên bờ giả nang không đều( không phải là nụ ung thư trên giải phẫu bệnh)
Vôi hoá có thể thấy ở nốt đặc hay nốt hỗn hợp, có thể là nốt vôi hoá khá lớn( đại thể), những nốt vôi hoá vi thể ( 5-70 m) thường không thấy trên siêu âm, trên máy có độ phân giải cao có thể thấy những những điểm lấm tấm vôi hoá ở chu vi nốt.
Siêu âm cho phép thấy trước hình ảnh giải phẫu bệnh đại thể của nốt, cùng với kích thước, và cấu trúc bên trong là đặc, rỗng, phối hợp, có vôi hoá bên trong hay không. Cấu trúc đặc thường là tổ chức tuyến đôi khi ung thư, cấu trúc rỗng âm là nang hay chảy máu. Miêu tả tren siêu âm đúng tới trên 90% với giải phẫu bệnh đại thể.
Tổn thương trên 2cm không thể phân biệt là nốt đơn độc hay nhiều nốt gộp lại.
Đánh giá hình ảnh siêu âm và đại thể chính xác tới 90%, nhưng đánh giá bản chất của nốt thì tinh thế hơn nhiều:
+Hiếm có trường hợp siêu âm có thể khảng định đó là nốt lành tính( đó là trường hợp nang). Nang và giả nang là hai giai đoạn khác nhau của một tổn thương bệnh lý, nang thường là chuyển từ nốt đặc lành tính sang rỗng hoàn toàn trong chứa dịch đặc hay dịch vàng chanh, các nguyên nhân khác của nang như nang bẩm sinh, nang ứ đọng hiếm gặp.
+ Thông thường siêu âm cho những đánh giá suy đoán:
.Nốt đặc tăng âm thường lành tính. Nốt đặc tăng hay đồng âm có viền giảm âm xung quanh thường là lành tính, viền giảm âm có thể là vỏ nốt, hay tổ chức tuyến bị trèn ép. (Tuy nhiên cũng gặp một số ung thư có viền giảm âm đã được phát hiện)
.Nốt đặc giảm âm có thể là lành tính hay ác tính, u càng có khả năng ác tính hơn nếu như nốt đặc giảm âm có gianh giới càng không rõ ràng.
.Nốt hỗn hợp thường đầu tiên là nốt đặc sau đó hoại tử chảy máu thành nang một phần, nó được coi như nốt đặc có cấu trúc nang ban đầu chưa thành nang . Tức là lúc đầu nếu là đặc âm hay đồng âm có viền giảm âm hay không thì thường là lành tính, nếu lúc đầu là giảm âm nhất là giảm âm không đồng đều thì càng nghi ngờ ác tính.
.Khi đã chuyển sang giai đoạn giả nang thì nguy cơ ác tính ít hơn nhiều so với nốt đặc cùng cấu trúc lúc ban đầu. Tuy nhiên cũng có ung thư dưới dạng giả nang này (cystadéno-carcinome papillaire)
.Các nốt vôi hóa đại thể không gợi ý cho tổn thương lành tính hay ác tính của nốt.
Vai trò của siêu âm trong chẩn đoán: Trước trường hợp có nghi ngờ nốt trên lâm sàng thì siêu âm giúp cho:
.Khảng định có nốt hay không, giả dương tính trên lâm sàng không phải ít.
.Siêu âm nghiên cứu nốt thấy trên lâm sàng về kích thước,vị trí, cấu trúc âm, và định hướng bản chất.
.Siêu âm tìm các tổn thương nốt không thấy trên lâm sàng
.Tìm các hạch to bệnh lý vùng cổ, nếu có càng nghi ngờ tổn thương ác tính
.Siêu âm giúp hướng dẫn chọc dò sinh thiết
.Siêu âm theo dõi tiến triển của bệnh nhất là các trường hợp điều trị hocmôn để xem nốt có giảm thể tích hay không sau khi điều trị.