1. Động mạch chậu
– Động mạch (ĐM) chậu nằm sau ống tiêu hóa. Việc thăm khám cần dùng đầu dò có tần số 3-5 MHz. Có thể sử đụng dầu dò Convert siêu âm bụng hoặc dùng chế độ Virtualcovert ở một số dòng máy siêu âm. Nếu có tái khám, nên dặn bệnh nhân ăn nhiều chất xơ để hạn chế hơi trong ống tiêu hóa.
– Siêu âm ĐM chậu ngoài thường bắt đầu từ ĐM đùi chung sau đó đi ngược lên trên. Khi thấy ĐM chậu trong tức là hết ĐM chậu ngoài.
– ĐM chậu chung được đánh giá từ chạc ba động mạch chủ sau đó xuôi xuống dưới cho đến khi thấy ĐM chậu trong.
2. ĐM đùi
– Các động mạch đùi thăm khám gồm: ĐM đùi chung, ĐM đùi nông, ĐM đùi sâu.
– Tư thế bệnh nhân là tư thế ngửa
– Sử đụng đầu dò tần số 5-12 MHz
– Thông thường, sử dụng lát cắt ngang để định vị ĐM sau đó cắt dọc để đánh giá kết hợp.
– Thường không nên di đầu dò liên tục mà nên thăm khám theo kiểu nhảy cóc từng đoạn. Đối với ĐM đùi nông cần đánh giá ở ba vị trí: 1/3 trên – 1/3 giữa và 1/3 dưới. ĐM đùi sâu cần khảo sát ít nhất 5cm.
3. Ống cơ khép và hố khoeo
– Nên cho bệnh nhân nằm nghiêng hơn là nằm sấp. Vì tư thế này cho phép đánh giá liên tục giữa phần thấp ĐM đùi nông với ĐM khoeo và các ĐM ở phần trên bắp chân.
– Các ĐM đùi trong ống cơ khép có thể sử dụng đầu dò Convert hoặc chế độ Virtual Convert ở đầu dò Linear.
4. Các ĐM vùng cẳng chân
– ĐM chày sau được xác định bằng cách đặt đầu dò dọc theo đường giữa mặt sau một phần ba giữa cẳng chân, phía sau xương chày hoặc phía trên mắt cá trong.
– ĐM mác chạy sau màng gian cốt. Xác định ĐM mác bằng đường thẳng đi từ mặt sau ngoài của xương mác đến điểm sau mắt cá ngoài.
– ĐM chày trước: nằm trước màng gian cốt. Mặc dù là chày trước nhưng ĐM chày trước nằm gần xương mác hơn xương chày. Có thể xác định ĐM chày trước bằng cách đặt đầu dò trên đường tượng trưng từ mặt trong của đầu trên xương mác đến điểm giữa cổ chân, hoặc thể xác định ĐM mu chân trước sau đó đi ngược lên trên.