Mục lục
1. Chọn đầu dò siêu âm:
Người lớn thường dùng đầu dò 3,5 – 5MHz, trẻ em thường dùng đầu dò từ 5 -7,5MHz. Tốt nhất nên dùng đầu dò cong lồi.
2. Kỹ thuật thăm khám thận:
Tiếp cận thận bằng siêu âm có thể từ phía trước, phía bên hoặc từ phía sau. Nhưng nếu tiếp cận thận từ phía trước thường gặp khó khăn vì vướng hơi trong các quai ruột, tiếp cận thận từ phía sau có thể bị hạn chế đối với những người lực lưỡng có khối cơ lưng dày. Thăm khám được tiến hành theo các lát cắt dọc liên tiếp từ mặt trước tới mặt sau thận hoặc ngược lại và các lát cắt ngang từ cực trên tới cực dưới. Trong quá trình thăm khám cần bảo bệnh nhân hít vào và thở ra sâu để đánh giá thận một cách toàn diện hơn.
3. Hình ảnh siêu âm bình thường của thận
Hình thể ngoài của thận được nghiên cứu một cách rõ nét trên các lát cắt siêu âm. Trên các lát cắt đứng dọc liên tiếp chúng ta có thể khảo sát được mặt trước và mặt sau của thận. Các lát cắt hướng mặt sẽ cho thấy cấu trúc của hai bờ trong và ngoài. Vì rốn thận nằm chếch ra trước và vào trong nên để thấy rõ các đài và bể thận tới vùng rốn người ta thường sử dụng lát cắt dọc chếch từ đường nách sau hướng tới bờ trước đốt sống. Đồng thời các lớp cắt siêu âm cũng cho phép khảo sát các cực thận.
Kích thước thận được đo theo 3 chiều: chiều dọc, chiều rộng và chiều dày. Weil và cộng sự đã giới thiệu cách đo các kích thước thận như sau:
– Chiều dọc đo trên mặt cắt dọc qua rốn thận theo đường nách giữa, từ cực trên đến cực dưới. Chiều dọc bình thường ở người trưởng thành từ 9cm- 12cm
– Chiều rộng đo trên mặt cắt ngang qua rốn thận, từ rốn thận đến đường viền bao thận. Chiều rộng bình thường ở người trưởng thành 4-6cm.
– Chiều dày đo trên mặt cắt ngang qua rốn thận, chỗ dày nhất từ mặt trước ra mặt sau thận. Kích thước bình thường ở người trưởng thành 3 – 3,5cm.
Các kích thước thận bình thường của người Việt nam ở lứa tuổi 16- 40 theo một nghiên cứu của Nguyễn Văn Xang và cộng sự: chiều dọc 9,78 cm, chiều rộng 4,47cm, chiều dày 4,42 cm.
Siêu âm thận có một đường viền xung quanh đậm âm đó là đường viền bao thận. Tổ chức bên trong bao gồm hai lớp:
– Một lớp ở ngoại vi, ít âm, tương ứng với phần nhu mô chức năng;
– Lớp thứ hai ở trung tâm, tăng âm, tương ứng với vùng xoang thận.
Trên các lớp cắt ngang liên tục từ cao xuống thấp, cực trên của thận có hình tròn, cấu trúc âm tương đối đồng nhất; sau đó thận dẹt xuống dần theo chiều trước sau trở nên có hình bầu dục, đồng thời vùng xoang thận cũng dần dần xuất hiện. Khi lớp cắt đi qua rốn thận thì thận có hình móng ngựa mở vào trong và ra trước. Qua lớp cắt này thấy được bể thận và các mạch máu vào thận. Bắt đầu từ lớp cắt này trở xuống thận lại bắt đầu có hình bầu dục, phần xoang thận dần dần mất đi theo các lớp cắt và cuối cùng cực dưới thận xuất hiện với hình tròn và chỉ chứa phần nhu mô ít âm.
Trên các lớp cắt dọc hình ảnh siêu âm thận cũng giống như trên các lớp cắt ngang. Các lớp cắt dọc qua vùng ngoại vi cũng chỉ có hình nhu mô thận, sau đó hình xoang thận xuất hiện dần theo các lớp cắt đi dần vào giữa thận. Các cấu trúc của thận thường phân biệt dễ hơn trên các lớp cắt dọc, nhất là các lớp cắt dọc theo mặt phẳng chính diện. Đồng thời cấu trúc này cũng phân biệt dễ hơn ở thận người trẻ, nhất là ở phôi thai và trẻ em.
Hình ảnh siêu âm của nhu mô thận
Trên siêu âm nhu mô thận cũng phân biệt thành hai vùng: vỏ thận và tuỷ thận.
– Tuỷ thận tương ứng với các tháp Malpighi, bao gồm các hình tam giác ít âm, giới hạn rõ, đỉnh hướng về trung tâm và tiếp giáp với các đài nhỏ.
– Vỏ thận thường tăng âm hơn các tháp, nhưng ít âm hơn gan. Các cột Bertin nằm xen vào giữa các tháp và cũng hướng về trung tâm của thận.
Tuy nhiên, đôi khi sự phân biệt giữa tuỷ và vỏ thận khó khăn, nhất là ở người già, lúc này cấu trúc âm của tuỷ và vỏ thận gần như đồng nhất.
Hình ảnh siêu âm của xoang thận
Xoang thận rất tăng âm do vùng này có rất nhiều bề mặt phân cách của tổ chức mỡ, tổ chức nâng đỡ, các mạch máu, các thành phần đài bể thận. Các đài nhỏ, các đài lớn được nhìn thấy trên siêu âm ở điều kiện bình thường dưới dạng các đường nhỏ ít âm hội tụ về hướng bể thận. Các cấu trúc này thường thấy dễ dàng hơn khi bàng quang căng hoặc trong tình trạng cơ thể tăng bài niệu, lúc này hai thành của các đài thận được tách rời nhau bởi một đường không âm của nước tiểu. Bể thận cũng thấy được trên siêu âm bằng một hình ít âm nằm trong xoang thận hoặc trong rốn thận. Hình dạng và kích thước của bể thận rất thay đổi, kích thước trung bình độ 3 x 2 x 2cm.
Hình ảnh siêu âm mạch máu thận
Các mạch máu thận ở vùng rốn hai bên có thể nhìn thấy được trên siêu âm cắt lớp. Nhưng để nghiên cứu tỷ mỷ chúng cần phải sử dụng siêu âm Doppler màu kết hợp với Doppler xung. Với siêu âm Doppler màu có thể thấy và đánh giá tình trạng các mạch máu thận từ lỗ xuất phát cho tới các động mạch cung. Tuy nhiên việc đánh giá động mạch thận sẽ dễ dàng hơn nếu chỉ có một động mạch duy nhất, nếu có nhiều động mạch thì việc nghiên cứu nó khó khăn hơn. Việc nghiên cứu các động mạch thận bằng siêu âm Doppler làm giảm rất nhiều các chỉ định chụp mạch máu thận.
Hình ảnh siêu âm của các khoang sau phúc mạc
Trong quá trình thăm khám siêu âm, việc phân định các khoang sau phúc mạc có ý nghĩa quan trọng để chẩn đoán định khu và mức độ lan rộng của máu tụ xung quanh thận. Các cấu trúc này được phân định trên siêu âm thông qua việc xác định các lớp mỡ trong các khoang và sự phản xạ âm trên bề mặt các lá của ổ thận và đặc biệt là của bao thận. Chính vì vậy, chúng thường khó phân biệt ở những người gầy. Nhưng ở người béo chúng đựơc biểu hiện một cách khá rõ nét trên các lát cắt siêu âm nhờ sự khác biệt âm trở giữa nhu mô thận, bao thận, lớp mỡ quanh thận, lá trước, lá sau của ổ thận và lớp mỡ cạnh thận Bao thận biểu hiện trên siêu âm là một đường viền tăng âm, mảnh, rõ nét, nằm sát nhu mô thận. Lớp mỡ quanh thận được phân định rõ nhất, nó được biểu hiện bằng một lớp tăng âm bao quanh thận. Khi có sự tụ dịch trong các khoang này với lượng vừa phải thì sự phân biệt chúng càng dễ dàng hơn. Sự di động của thận và lớp mỡ quanh thận theo nhịp thở cũng có ý nghĩa trong việc xác định các khoang khác nhau sau phúc mạc.