Giải phẫu đường mật trong siêu âm gan mật

Giải phẫu đường mật trong siêu âm gan mặc dù khá đơn giản, nhưng đóng vai trò quan trọng trong định vị tổn thương đường mật ngoài gan.

1. GIẢI PHẪU ĐƯỜNG MẬT

1. 1. Mô tả:

Đường mật bao gồm đường mật trong gan và đường mật ngoài gan.

Đường mật trong gan xuất phát từ các tiểu ống trong thuỳ rồi đổ ra các ống quanh thuỳ. Những ống này được nối với nhau và hợp lại ở khoảng cửa tạo thành những ống lớn hơn. Vị trí của đường mật trong gan giống với sự phân chia của tĩnh mạch cửa. Mỗi tĩnh mạch phân thuỳ có một hoặc hai ống mật đi về rốn gan để tạo thành một ống gan phải và một ống gan trái.

Đường mật ngoài gan (đường mật chính) có 4 đoạn: đoạn rốn gan, đoạn trong mạc nối, đoạn sau tá tuỵ và đoạn trong thành. Hai đoạn đầu góp phần tạo nên cuống gan mà nó gồm các thành phần chính đi và đến gan qua rốn gan là tĩnh mạch cửa, động mạch gan và đường mật chính. Trong đó, tĩnh mạch cửa nằm ở mặt phẳng phía sau của cuống gan, mặt phẳng trước gồm đường mật chính đi xuống ở bên phải và động mạch gan đi lên ở bên trái.

1. 2. Siêu âm:

Đường mật trong gan khó thấy nếu chúng không giãn. Đường mật chính phân tích trên các lớp chéo hoặc song song dưới sườn, đó là cấu trúc ống nằm trước tĩnh mạch cửa (H.11,12), đường kính thường dưới 7 mm, có thể lớn hơn sau mổ hoặc ở người già.

Common bile duct: ống mật chủ ở thể điển hình 1. Tĩnh mạch cửa – 2. Ống mật chủ thể điển hình – 3. ĐM gan

Trong trường hợp giãn do bít tắc, đường mật trong gan giãn biểu hiện là những hình ống giảm âm trong nhu mô gan giống hình “chân cua” hoặc “chân nhện”, tụ về rốn gan, ở trước các nhánh của tĩnh mạch cửa. Khi đường mật ngoài gan bị bít tắc, ống gan trái thường giãn sớm hơn ống gan phải.

Đường mật ngoài gan giãn, thấy trên các lớp cắt dưới sườn (ngang hoặc quặt ngược), là hình “khẩu súng hai lòng” ở cuống gan (tĩnh mạch cửa phía sau và ống mật chủ phía trước); cần phân biệt với hình giả do ống túi mật hoặc động mạch gan tạo thành với tĩnh mạch cửa.

2. GIẢI PHẪU TÚI MẬT

2.1. Liên quan với phúc mạc:

Mặt trên của thân túi mật liên quan chặt chẽ với hố túi mật của mặt dưới gan. Vùng này, túi mật chỉ dính với gan bởi tổ chức xơ – tế bào và có các tĩnh mạch cửa phụ nhỏ đi qua.

Phần còn lại của túi mật được che phủ bởi phúc mạc liên tục dọc theo bờ của thân và của đáy túi mật tiếp với lớp áo phúc mạc của mặt dưới của gan. Cổ túi mật được bao bọc bởi hai lá của mạc nối nhỏ và chúng liên tiếp với mặt dưới của gan.

Liên quan phúc mạc của túi mật giải thích sự quan trọng đường qua gan khi tiến hành chọc dò hoặc dẫn lưu túi mật, trách dò dịch mật.

2.2. Giải phẫu siêu âm:

Để nghiên cứu túi mật, phải thăm khám bệnh nhân lúc đói, nằm ngửa hoặc nghiêng trái và khi hít sâu. Túi mật (H.12) nằm ở mặt dưới gan, cạnh phải rốn gan và cuống gan, hình túi bầu dục dẹt với đường kính lớn trên lớp cắt dọc từ 8 đến 12cm, đường kính trên lớp cắt ngang trung bình khoảng 3,5cm. Túi mật có thành đều dưới 4mmm, chứa dịch trong, trong trường hợp ứ trệ túi mật có thể có vẩn âm bên trong.

2.3. Biến đổi giải phẫu:

Những bất thường về vị trí của túi mật là hiếm gặp. Có thể túi mật ở dưới thuỳ trái hoặc trong gan. Hiếm hơn nhiều là túi mật ở dưới sườn trái, thường phối hợp với đảo ngược phủ tạng.

Bất thường về số lượng cũng hiếm gặp, có thể là thiểu sản túi mật hoặc hiếm hơn túi mật đôi (H.13).

Hay gặp hơn cả là những bất thường về hình thái túi mật. Bất thường hay gặp nhất là túi mật có đáy bị gập lại. Hiếm gặp hơn là túi mật hình túi cát. Túi mật có vách ở giữa tạo hình túi mật hai thuỳ (H.14). Những bất thường về hình hình dạng túi túi mật không liên quan nhiều đến lâm sàng.

Post Comment