Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính màng phổi, thành ngực và cơ hoành

Các bệnh lý màng phổi như tràn khí, tràn dịch thường có thể đánh giá bằng X quang phổi chuẩn. Tuy vậy bệnh lý thành ngực và cơ hoành nhiều khi bị bỏ sót trên phim chuẩn. Các tổn thương sớm ở xương sườn nhiều khi rất quý cho chẩn đoán bệnh lý ở phổi thường chỉ phát hiện bằng chụp CLVT. Bình thường chụp CLVT không thấy được lá tạng và lá thành của màng phổi, chỉ khi có khí, dịch hoặc tổ chức mềm chen vào giữa hai lá màng phổi mới có thể nhận biết được chúng.

A.màng phổi.

1. Ổ dịch màng phổi phát hiện trên chụp CLVT sớm hơn nhiều so với phim chuẩn. Hình dầy màng phổi kèm với ít dịch đôi khi khó phân biệt; thay đổi tư thế bệnh nhân lúc chụp cắt lớp có thể giúp chẩn đoán phân biệt. Các tràn dịch màng phổi dạng tiết, dạng thấm, dạng dưỡng chấp cho đậm độ đồng nhất gần với nước và không phân biệt được trên ảnh.

Tràn máu màng phổi có đậm độ cao và thường không đồng nhất.

Chẩn đoán phân biệt tràn dịch màng phổi với dịch màng bụng có thể dựa vào vị trí của dịch: lớp dịch ngoại biên vòm hoành là của màng phổi, còn dịch vùng trung tâm là của màng bụng.

Tràn dịch màng phổi một bên hoặc hai bên mà không phối hợp với tổn thương nhu mô phổi ở người trẻ thường là lao, ở người già thường là u.
Tràn dịch màng phổi do u hay gặp nhất trong di căn màng phổi rồi đến lymphoma và lơxêmi. Các tràn dịch màng phổi do chấn thương hoặc sau mổ có tiền sử thuận lợi cho chẩn đoán.

Một số tràn dịch màng phổi do bệnh lý ở bụng như viêm tuỵ cấp, apxe dưới hoành, dịch màng bụng, suy thận .v.v.. có thể xác lập được chẩn đoán nếu chú ý đến lâm sàng và bệnh lý toàn cảnh của bệnh nhân.

Tràn mủ màng phổi thường gặp thứ phát sau viêm phổi nhiễm trùng hoặc nhiễm trùng mủ huyết.

2.Dầy màng phổi có hai nguyên nhân hay gặp là xơ và u. Xơ màng phổi là di chứng chung của tràn mủ, tràn máu, lao, kể cả asbestosis và nhiễm bột talc ở phổi.

Dầy màng phổi do u thường phối hợp trong u trung mô lành và ác, di căn, lymphoma và những xâm lấn tại chỗ do ung thư phế quản, nhất là u phế quản ngoại biên và u pancoast, ung thư tuyến ức.

Dầy màng phổi lan rộng do xơ màng phổi dẫn đến bóp nghẹt phổi, làm giảm thể tích phổi, dầy màng phổi có thể thấm vôi thành mảng rộng.

3.Các u trung mô (mesotheliomas) có thể lành có thể ác. U lành thường xuất phát từ lá tạng hình thành khối tổ chức mềm ranh giới rõ nét có khi nhiều thuỳ, kích thước từ 2 – 14cm. Các u nhỏ thường có đậm độ đồng nhất, còn các u lớn đậm độ không đều, nhất là sau tiêm thuốc cản quang do hoại tử, chảy máu, tạo kén và vôi hoá trong u. Các u ác có độ ác tính cao và tiên lượng xấu. Phần đông u này xuất phát từ bệnh nhân có tiền sử tiếp xúc với Amian. U trung mô có thể gây ra dầy màng phổi lan rộng, dễ nhầm với các nguyên nhân khác. Tiêm thuốc cản quang có thể giúp phân biệt vì u màng phổi ngấm thuốc mạnh còn xơ màng phổi ngấm thuốc ít.

4.Di căn màng phổi rất hay gặp và rất khó phân biệt với u trung mô trên chụp CLVT. Nguồn gốc của di căn màng phổi thường là ung thư phế quản, u đỉnh phổi, ung thư tuyến ức; các u này tới màng phổi do tiếp cận, di căn màng phổi theo đường máu hay gặp nguyên phát từ vú, thận, buồng trứng và ống tiêu hoá.

B.thành ngực.

Các tổn thương thành ngực thường xuất phát từ xương sườn hoặc tổ chức mềm ở khoang liên sườn bao gồm cả mạch máu và thần kinh. Các tổn thương này phát triển thành khối và đẩy màng phổi về phía trong của khoang ngực tạo thành góc tù giới hạn tổn thương với thành ngực. Các tổn thương xương sườn do chấn thương, do u và do nhiễm trùng thường gây ra tổn thương thành ngực bao gồm các tổn thương như can xương, đa u tuỷ, cốt tuỷ viêm do nhiễm khuẩn, lao hoặc nấm. Cũng có tổn thương xương sườn lành tính gây tổn thương thành ngực như loạn sản xơ xương, kén xương, u sụn xương…

C. Cơ hoành

Cần chú ý về giải phẫu học những trụ cơ lấn sâu xuống khoang bụng cạnh cột sống, trụ phải rộng hơn và dài hơn trụ trái.

1. Thoát vị hoành: Có thể bẩm sinh hoặc mắc phải.

-Thoát vị qua lỗ thực quản (hiatus) hay gặp nhất và thường có thể phát hiện trên X quang chuẩn.

-Thoát vị Bochdalek hay gặp ở bên trái và có thể thấy ở dọc theo bờ sườn hoành sau ; loại thoát vị này thường khá lớn và có thể chứa mạc nối, mỡ sau phúc mạc, ruột, lách, gan, thận, dạ dày và tuỵ.

-Thoát vị Morgagni (qua ổ khuyết cơ hoành) ở khoang cạnh ức (trước giữa) có thể chứa gan, mạc nối hay ruột.

-Thoát vị do chấn thương có thể xảy ra sau chấn thương kín hoặc vết thương xuyên – loại này có thể không có triệu chứng lâm sàng nhiều tháng nhiều năm. Khoảng 90% loại thoát vị này gặp ở bên trái, vùng giữa hoặc sau của vòm hoành. Mạc nối dạ dày, ruột, lách và thận đều có thể chui qua lỗ vỡ cơ hoành để vào khoang ngực, loại thoát vị này dễ có biến chứng thắt nghẹt.

2. Nhão vòm hoành thường là bẩm sinh làm cho các tạng bụng cùng bên di chuyển lên cao. Hay gặp nhão vòm hoành bên phải ở phần trước giữa. Trường hợp này gan chuyển vị lên trên và cần tránh nhầm với khối u ngoại biên của phổi hay u màng phổi. Nếu nhão vòm hoành bên trái thường nhão toàn bộ cơ hoành trái giống như một trường hợp liệt cơ hoành.

Hình giải phẫu cơ hoành và vị trí của ba loại thoát vị

– Thoát vị Morgagni ở phần trước giữa vòm hoành

– Thoát vị cạnh thực quản còn gọi là thoát vị khe hoành (hiatus hernia)

Thoát vị Bochdalek ở phần sau bên vòm hoành

Post Comment